SÔNG LUỘC ÂN TÌNH

 

                                     Truyện ký: Nguyễn Phúc Lai

Năm 1971. Mùa lụt.

Trưa hôm qua, mặt nước còn cách mái gianh gần nửa mét. Tưởng lũ to đến thế là cùng, nào ngờ sáng nay nước ngập kín tứ bề, mái nhà như úp chụp trên mặt nước, ông phải lần sờ cởi lạt, xé mái gianh mới chui thuyền ra được…

Đã hai hôm rồi ông bà già chịu ngồi bó gối trên cái sàn bắc cao trên lưng chừng nhà. Nói là sàn chạy lụt nhưng vỏn vẹn chỉ là cái cáng làm bằng tre, ông đóng cho dân quân trong xã để cấp cứu phòng không. Một đầu cáng gác vào cây xoan xà nhà, đầu kia cột vào cây tre cắm xuống nền nhà làm cọc. Dưới sàn nổi lềnh bềnh trên mặt nước là cái thuyền thúng và cái chảo gang to, buộc giữ nhau bằng một sợi dây đay. Trên thuyền chỉ để bó củi đay, bao gạo, liễn muối. Còn trên cái chảo gang đặt cái kiềng. Suốt đời bà đã tần tảo cơm dẻo canh ngọt cho ông đi hoạt động. Bây giờ, dù lụt lội bà vẫn săm se ngồi trên thuyền, ngồi rất cân bằng, với tay sang cái chảo gang đun bếp nấu cơm. Thổi một bữa ăn hai, mà chỉ cơm muối rang chứ không kiếm được một ngọn rau nào. Thỉnh thoảng nghe tiếng cá quẫy ngang ngoài cửa, ông lại lắc đầu tiếc rẻ trong tay không có cái cần câu hay là cái vó tay, tấm lưới. Nhớ ngày trước, có năm nước lụt, cá mương, cá mè bơi qua sân từng đàn, lưng cá trông xanh cả mặt nước. Ông mắc mồi bằng trứng tổ kiến, giật một lúc cứ là được hàng rổ cá rô.

Con đê to gấp rưỡi, gấp đôi đê ngày trước, mà chiều qua ông ở trên điếm canh về còn đứng trên mặt đê, khoả chân xuống tới nước. Nói dại, nước nhớn thế này mà xẩy ra vỡ đê? Lo nhất là máy bay của giặc Mỹ nó nhào ra ném bom. Vỡ đê bây giờ thì ngập lụt cả tỉnh, thiệt hại không biết cơ man nào mà kể. Mùa màng ngập lụt, thì còn thóc đâu, lợn đâu mà tiếp viện cho mặt trận, cho tiền tuyến. Ông phải bổ về, chịu ngồi bó gối trên sàn nhà là ông khổ sở lắm.

Bà hỏi ông:

- Có lẽ từ ngày tôi về làm bạn với ông đến giờ, mùa lụt năm nay ông mới ở nhà là một …

Ông ờ lên chợt nhớ ra và cười vui …

- Tôi thương bà …ở nhà thui thủi một mình …

- Gớm nhỉ …

Chiều hôm qua, khi lo chạy lụt cho dân ngoài bãi đã tạm ổn, ông chủ tịch xã ra điếm canh giữ đê nói với ông: “Thôi, việc canh gác giữ đê đã có anh em dân quân, thanh niên. Cụ về với bà lão xem thế nào … chứ dạo này tôi thấy bà lão yếu lắm rồi …”. Ông Tôn nghe vậy mà chạnh lòng. Ông không chịu mỗi khi ai đó bảo ông đã già, không còn được việc nữa. Canh đê là việc nghiêm cẩn. Đã bao nhiêu mùa nước lũ chính quyền xã đã tin giao cho ông làm điếm trưởng điếm canh đê, trông coi đoạn đê từ xã Thuỵ Lôi xuống xã Cương Chính, từ điếm canh số 15 đến điếm số 16, dài hai kilomet. Dù biết không ai còn để ông già bảy mươi đêm đêm xách cái đèn chai đi tuần đê, nhưng ông cũng muốn ở lại trên đê để đôn đốc nhắc nhở, vì anh em họ đang tuổi ăn tuổi ngủ. Nhưng có nhẽ ông chủ tịch xã nói vậy không phải vì đánh giá thấp tinh thần của mình. Ông bất giác phóng tầm nhìn về cánh bãi xóm nhà, nước lũ đục ngầu dâng ngập tới ngang ngọn tre, mông mênh là nước. Khuất sau những ngọn tre chấp chới trên nước nổi kia là mái nhà ông. Năm xưa còn có các con, không con trai thì con gái ở nhà. Bây giờ chỉ có một mình bà lão. Chiều đang tối dần. Thế là ông dặn dò anh em mấy câu rồi bơi thuyền về nhà, không chỉ vì tình chồng nghĩa vợ, mà còn vì các con đã hy sinh, vì đòi hỏi của Đảng uỷ và chính quyền xã …

Ông về nào có giúp được gì cho vợ, mà chỉ để cùng ngồi với bà trên cái sàn cao sát nóc nhà. Chính cái cáng ngày xưa đã đưa xác Hoà, con gái, từ bên nhà chồng bị bom phá tan hoang về với bố mẹ đẻ. Chiếc cáng quá hẹp, không thể nằm, nên cả hai ông bà đều phải ngồi, ngồi quay mặt vào nhau. Trẻ cậy cha, già cậy con. Vợ chồng được sáu người con. Bốn con trai đều đi bộ đội, ba đã hi sinh, chỉ còn Đoàn Kim Khánh, con út, bây giờ không biết đang ở mặt trận nào. Ở gần có Đoàn Thị Đáng, công tác xí nghiệp may thị xã Hưng Yên, nhưng chị đang có mang đến tháng đẻ, không thể lặn lội sông nước về thăm cha mẹ. Chỉ có hai vợ chồng già nương tựa vào nhau để chống chọi với lũ lụt, chống chọi với cô đơn. Ông thức thì bà gục đầu trên gối ông mà ngủ. Vợ chồng chung sống với nhau gần năm mươi năm, nhưng dường như cả đời chỉ căng ra mà lo sưu thuế, đói kém, lo lụt lội, lo hạn hán, lo chạy giặc và lo đánh giặc, lo cho bộ đội, lo cho dân quân, lo cho làng xã hơn là lo cho gia đình, đến cái lúc này mới có thể ngồi lắng lại trong sâu nặng nghĩa vợ chồng. Trong cái ánh sáng từ mặt nước hắt lên, ông nhuần nhị ngắm mái đầu bà gục xuống trước mặt. Mái tóc vẫn dầy dặn nhưng sợi nào sợi ấy đã mòn mảnh đi và hanh hanh bạc. Ôi chao, thuở ấy, tóc bà vấn trần sao mà đen thế, nước da bánh mật, con mắt hiền nhưng khôn, ông mới gặp lần đầu nhưng trong lòng đã bừng lên như lũ cuốn. Năm mươi năm trước, xóm chỗ này mới lèo tèo có dăm túp lều của dần làng Triều Dương  xuống đất bãi sống ngụ cư. Anh Tôn đi ở cho nhà bà Liêm bên làng Thuỵ Dương, còn cô Áo hôm ấy lên mời nhà bà Liêm và mượn về cho nhà đám cái bàn đèn. Trong khi chờ ông bà chủ đi vắng chưa về, vốn tính lam làm, cô liền cầm cái chổi tre quét tước từ sân ra ngõ. Người đâu mà mái tóc, làn da đẹp thế, mà cái dáng cúi, cái tay đưa chổi đến ngoan đến khéo? Cho nên sau khi cô về, anh đã đánh bạo hỏi bà chủ xem cô ấy là con cái nhà ai và nhờ bà hỏi cho làm vợ. Nhà Đội Lan cũng cần có thêm người ăn người ở, nên khi nghe bà Liêm ngỏ lời thì bằng lòng ngay, cưới rể về nhà mình.

Đúng với nghĩa là đi ở rể. Nhà chủ cho đôi vợ chồng trẻ ở dưới bếp, chỉ có một manh chiếu giữa cái rét một chạp và hàng ngày ăn cháo ngô non, xát cả lõi. Bà kể rằng, vợ chồng cưới nhau rồi, bà khóc mấy đêm liền. Không phải khóc vì trái duyên mà oán số phận. Tết đến, bà Đội Lan cho hai cái bắp cải mang về thăm mẹ chồng. Nào có đâu xa, chỉ xóm dưới xóm trên mà bây giờ mới về đến nhà chồng. Đứng trước gian lều mái thủng nhìn thấy cả trời, bên trong không một cái giường cái chõng, còn mẹ chồng thì đang nằm trong một cái mê thuyền lót lá chuối khô làm ổ. Thế là bà lại oà khóc, quay bỏ về, không về nhà Đội Lan mà chạy ra bến đò về nhà bố mẹ ở làng Liêu Xá bên kia sông Luộc. Cũng một mái nhà không giầu có gì hơn, bố mẹ quanh năm đi tát xúc mò cua bắt ốc kiếm ăn. Ông bổ sang sông tìm vợ trở về. Vợ chồng đã từng gừng cay muối mặn đến như thế, cho nên bấy nhiêu năm chung sống với ông, dẫu có phải gánh những gánh nặng đến mấy thì bà vẫn cắn răng chung lưng đấu cật. Cái gánh nặng nhất là nỗi đau mất năm trong cả thảy sáu đứa con! Tin báo tử người con ngày chưa nguôi thì lại đồn đến tin báo tử con khác. Nguyễn Danh Trí, con cả, bộ đội đánh Pháp, hy sinh năm 1954. Vào thời kỳ cuộc kháng chiến chống Mỹ quyết liệt nhất, trong hai năm 1967 -1968, ba lễ truy điệu con ngay trên sân nhà. Đoàn Thị Hoà, trưởng ban y tế xã, bị bom ngay trong thôn, Đoàn Danh Tuệ, Đoàn Kim Chúc hy sinh ở chiến trường miền Nam.

- Con nó đi đánh giặc, đã hy sinh anh dũng. Bà cũng phải anh hùng lên bà nhé! Khóc, con nó cũng không sống lại được, mà phải trả thù cho nó …

Đó là câu ông  vẫn nói với bà mỗi lần cán bộ trong xã và dân làng đến nhà làm lễ truy điệu. Bà không bao giờ khóc trước mặt dân làng, cũng không khóc trước mặt chồng. Nhưng ông đã mấy lần thấy bà ngồi giấu mình bên cối giã gạo đưa vạt áo quệt nước mắt khóc thầm.

Bây giờ bà đang tựa đầu gối ông mà ngủ. Ông khẽ nâng đầu bà, đặt bàn tay lên cái đầu gối xương xẩu như cái gốc tre làm đệm cho bà đặt lên má. Bà vẫn thở đều, thanh thản, bình yên. Ông tưởng bà ngủ, nào ngờ ông bỗng thấy bàn tay mình ươn ướt, nong nóng. Chả nhẽ bà đang khóc, trong mơ? Ông đang nôn nao cả người thì bà bỗng ngẩng lên, lấy cùi tay quệt ngang mắt:

- Cái năm thằng Trí nó đi, cũng giữa hôm nước sông đang lên to, ông nhỉ?

Thì ra bà không ngủ, mà đang nhớ các con. Phải rồi, ông cũng có quên đâu. Hồi nọ một anh phóng viên báo của tỉnh không biết nghe ai kể mà viết đăng lên báo là “một chiều nắng hanh giữa mùa lũ, Đoàn Danh Trí quay mũi thuyền từ biệt cha mẹ lên đường …” là không đúng. Nhà năm ấy không có thuyền. Năm 1949, Trí đang là du kích của huyện, giặc Pháp đánh chiếm miền nam Hưng Yên, đóng bốt, lập tề, đi bộ đội phải giữ bí mật. Chiều hôm ấy Trí về nhà nói là con phải đi họp xa, xin mẹ một bát gạo và một hào. Lũ trên sông to, lối ngõ ra đường nước ngập đến cổ, anh cởi quần áo bơi một thôi ra đường. Hôm ấy anh đi là đi mãi, không lá thư gửi về. Bà vẫn xót xa thương người con trai cả ngày ra đi ấy, các em sau này đi đánh Mỹ đứa nào trước ngày lên đường cũng liên hoan vui vẻ, liên hoan ở nhà, liên hoan với đoàn thể, bạn bè, nào quà tặng, tiễn đưa. Đoàn Kim Chúc đi bộ đội nghĩa vụ sau hoà bình, tiến bộ nhanh. Cưới vợ hơn một tháng thì đơn vị đi B. Còn Đoàn Danh Tuệ có đoạn sướng hơn hai anh là được sống với gia đình nhiều năm, công tác ngay tại huyện đội Tiên Lữ, cưới vợ rồi còn làm nhà, được bốn mặt con mới tái ngũ. Đấy là tất cả cháu nội của ông bà, cùng với bốn cháu ngoại, con chị Đáng, dưới em Tuệ. Còn thằng Khánh bây giờ đang ở đâu? Khánh là bộ đội lái xe, nay đây mai đó, mỗi lần về qua Hà Nội ghé vào cơ quan thăm chị Núi, vợ goá anh Chúc, chị lại viết thư về. Mỗi khi có khách đến thăm nhà ông lại khoe về thằng con trai út thật hởi lòng hởi dạ. Khánh là em út, vóc người nhỏ bé nhưng tinh thần đâu có chịu kém các anh các chị. Ấy, sở dĩ nó còi cọc - bà thường hay xen vào câu chuyện của ông - là vì mới đẻ được hai ngày đã phải chạy Tây đổ bộ. Trời mưa rét, bà còn phải gồng gánh, nhờ chú Toạ ôm Khánh hộ một đoạn, mải miết chạy xuống đến làng Điềm thì chợt chú Toạ kêu lên: “Không khéo cháu nó chết mất rồi chị ơi!”. Bà đặt gánh, mở tã lót ra thì thấy người con đã tím lại, vội vàng tạt vào nhà bên đường xin mớ rơm đốt đống lửa sưởi. Một lúc sau nó mới hồi, ngậm được đầu vú. Mới mười bảy tuổi, học hết cấp hai nhưng Khánh đã làm đơn xin đi đánh Mỹ. Xã không chấp nhận vì nhà đã ba anh hy sinh, cả chị gái là bốn, chỉ còn mình Khánh là trai. Khánh biết quyền quyết định cho mình nhập ngũ bây giờ không phải là xã đội hay huyện đội mà là bố mẹ. Ông hiểu nguyện vọng của con trai, nhưng phải nhường quyền cho vợ. Ba anh nó lần lượt ra đi, cả ông  cả bà không phải mất một lời bàn là nên hay không. Ông nói với bà: “thằng Khánh nhà mình thuộc diện được miễn hoãn, nhưng cả nước đánh giặc. Thanh niên khí huyết giang cường, chắc nó chẳng chịu ở nhà bó gối với bố mẹ đâu. Con nó muốn đi bộ đội để trả thù cho các anh các chị, ý bà thế nào?”. Bà thì không biết nói chữ nghĩa, “lý luận” như ông, nghe chồng nói vậy, bà đáp ngay: “chán cho cái nhà ông? Ông cứ làm như tôi ngăn cản bước đường của con không bằng …”. Thế là Khánh hớn hở cùng bạn bè đi khám tuyển. Biết mình “nhỏ con” khó có thể đủ cân, anh nhét vào túi quần một bên là quả cân, một bên là cái đầu búa đanh. Sau này, Khánh đã vào bộ đội, có ai đến chơi nhà hỏi thăm về Khánh, ông lại đưa quả cân và cái búa ra khoe. Không dấu nổi tự hào …

Cái cân đã hỏng, không biết quả cân nó nằm đâu, chứ cái búa thì ông vẫn dùng để chèn cửa. Giờ đây nó cũng như tất cả các đồ vật trong nhà, đang bị ngập sâu dưới tầng nước đục ngầu phù sa …

Ông hiểu rằng trong cảnh cô quạnh giữa bốn bề nước lụt, bà lại đang nhớ thằng Khánh, nhớ các con. Nhớ ắt sẽ buồn. Buồn rồi lại khóc. Không khóc thành tiếng thì cũng khóc thầm. Ông dù đau đớn buồn khổ thế nào, trước vợ con, trước dân làng, ông vẫn sẽ nói những lời tỏ rõ khí phách. Buồn khổ là sẽ thua thằng địch. Như sau cái hôm con gái bị bom Mỹ giết hại. Hôm ấy, bom Mỹ còn giết mất cả hai ông cháu ông Kiệt thợ may, cả ba mẹ con nhà bà Căn - có hai người chửa, thành năm người, không tìm đâu thấy xác. Chiều đến, làng xóm chìm trong cảnh tang tóc. Ngày ấy xã cử ông đỡ đầu đội văn nghệ của xã. Ông động viên anh chị em đến biểu diễn mấy tối liền, ngay trên sân kho xóm bãi. Bà con dân làng không thể ngờ chính ông cũng lên hát! Ông hát bài “Quê tôi Anh Dũng”. Ngày ấy xã này tên là xã Anh Dũng, chưa lấy lại tên cũ Thuỵ Lôi. Bài hát chèo do ông đặt lời, ông đã hát nhiều lần trong những buổi hội mùa, đại hội xã viên, những buổi khai giảng lớp bổ túc hay liên hoan tân binh lên đường … Bài hát kể về mảnh đất quê hương hai bên bờ đê sông Luộc, bên trong là đồng lúa chín vàng, ngoài là đồng đay xanh ngát, kể về số phận những người nông dân từ trong nô lệ đau thương đi theo lá cờ cách mạng của Bác Hồ. Ông già bảy mươi lên hát, giọng ông hồn hậu mộc mạc nhưng thiết tha vô cùng, tình cảm biểu lộ trên nét mặt, nhất là điệu bộ đôi tay múa chèo đến là tài hoa. Đâu phải chỉ là người hát mà đó là lời của quê hương, là cả cuộc đời ông đang nói lên với tất cả nỗi khổ, niềm vui. Bà đã mấy lần ngồi nghe ông hát, miệng thì cười mà nước mắt vòng quanh. Xem ông hát người ta mới hiểu rằng, phải là một người có tấm lòng nhiệt thành và thiết tha như thế mới đêm ngày trồng ngô, gieo vừng trên hàng mẫu ruộng bãi, chỉ để nuôi cán bộ, bộ đội những năm đen tối theo đường dây Hưng Yên -  Thái Bình vượt sông Luộc qua đây. Có trái tim nhiệt thành như vậy mới đưa vai gánh những gánh phù sa nặng cả trăm cân từ ngoài bãi sông vượt qua đê đổ vào đồng trong để làm ruộng tăng sản, mới cùng vợ và các con sau mỗi mùa cấy, mùa gặt lại vác cuốc vác mai lên các công trường thuỷ lợi, từ cống Triều Dương đến sông Bắc Hưng Hải, đập Neo …

Bấy nhiêu năm ông hát ở nhiều nơi, cho nhiều người nghe, nhưng hôm nay ông muốn hát riêng cho bà. Giữa cảnh nước lụt lưng nhà, trên cái sàn chật chội, bà ngồi tựa đầu trên gối ông, áp má nhăn nheo trên bàn tay ông, và khi nước mắt bà vô tình làm ướt bàn tay thì niềm cảm thương khiến cả người ông rung lên …

Ông khẽ nói với bà, giọng dỗ dành:

- Bà ơi, tôi hát bà nghe nhé …

Ông khe khẽ ngâm nga. Đầu tiên ông hát giọng Xẩm. Câu hát kể lời cô lái đò trên sông chăm chỉ học bình dân làm bà nhớ lại lớp học ngoài chùa mà anh Tuệ, con trai đứng giảng bài, còn bà thì ngồi dưới viết chính tả theo lời anh đọc. Khi ông chuyển sang giọng kể chuyện Tống Trân - Cúc Hoa thì bà lại nhớ đến chị Sen, vợ anh Trí, con cả, chẳng may đứt gánh giữa đường nhưng vẫn trọn tình nghĩa với bố mẹ chồng. Sau trận bão năm mới rồi, chị từ bên Thái Bình vượt đò, vượt sông, gánh sang cho bà bó lá mía để lợp lại mái nhà … Bên tai bà, giọng ông thủ thỉ, ngâm nga. Ánh sáng phản chiếu từ mặt nước đỏ nâu hắt lên mái lá những vòng sáng lung linh, khiến bà có cảm tưởng như đang cùng ông ngồi trên con thuyền trôi xa về những kỉ niệm …

Ngoài sông lũ vẫn réo cuộn dập vào bờ tre. Năm sau, vào một ngày tháng Chạp, Đoàn Kim Khánh, người con trai mà hai vợ chồng già yêu thương trông đợi nhiều nhất, hy sinh trên đường vận chuyển vào Nam! Tin này bạn bè của anh báo về cho chị Núi, vợ goá của anh Trúc ở Hà Nội biết trước. Chị con dâu đi vội từ bến cano về đến đầu ngõ nhìn thấy bố mẹ chồng liền oà khóc lên …

- Thày ơi, em Khánh nó hy sinh rồi! …

Bà con đang làm cỏ ngô ngoài bãi, rồi xóm giềng vội chạy cả đến. Tin báo tử nào về làng mà không gây chấn động. Nhưng lần này không chỉ với ông bà Tôn, mà đối với cả dân làng đã gây chấn động quá lớn, bởi vì Khánh là người thứ năm hy sinh, là con trai cuối cùng …

Ông đến bên nói với bà lúc đó còn bàng hoàng ngơ ngác đứng giữa sân trước cái tin sét đánh:

- Con nó đi đánh giặc, đã anh dũng hy sinh, bà cũng phải anh hùng lên bà nhé!...

Cả lần này nữa bà vẫn cùng ông đứng vững. Vì đêm đêm hàng đàn máy bay Mỹ, cả máy bay B-52 chúng rầm rầm kéo qua đây và ném bom Hà Nội. Xã lại vận động tuyển quân. Thanh niên tronglàng lại chuẩn bị ra đi …

 

II

Mùa cạn.

Đứng dưới khu đầm bãi nhìn về phía xóm, ngôi nhà của cụ Đoàn Văn Tôn như được dựng trên một quả đồi thấp, bao quanh là tre trúc. Nền nhà càng được tôn cao để tránh lũ lụt thì những cái ao phía ngoài càng được khơi sâu xuống. Và lối ngõ từ đường vào nhà trở lên một cái dốc khá cao đối với ông bà già đã ngoài tám mươi, lưng mỗi ngày một thêm còng thấp, gân cốt mỗi ngày một yếu mỏi. Vào nhà thăm hai cụ, đứng nhìn cái lối ngõ bên bụi tre được cuốc thành từng bậc ngắn, tôi băn khoăn nghĩ tới việc chỉ đi lấy nước ăn hàng ngày từ cái giếng đất ngoài kia đối với hai cụ già đã là một sự khó nhọc. Con dâu và các cháu thì ở xóm mãi ngoài gần sông. Xóm giềng thì phía sau là nhà bà Chu, cũng là một bà già có con trai duy nhất là liệt sĩ. Đằng trước là nhà anh Bái, bộ đội xuất ngũ về, nhưng sau những tự ái, bất đồng, vợ chồng anh có ý xa lánh ông bác ruột. Vậy thì ai đã đến gánh nước giúp ông bà già đổ đầy cái thống bên gốc nhãn kia? Hỏi ra mới biết hoá ra ông bà già chẳng cần phải nhờ ai gánh nước, mà quanh năm chỉ dùng nước mưa trời cho, hứng ngay bằng mặt cái thống cỡ bằng một cái nia. Đưa tay lật mở cái lắp gỗ, nhìn vào trong thống, đang mùa khô hanh mà nước vẫn đầy lưng lưng, trong vắt, tôi không khỏi cảm động đến se lòng! Thì ra cuộc sống của ông bà già chỉ cần đơn giản thế này đấy thôi! Bữa ăn hàng ngày thường chỉ có mấy ngọn rau muống, rau khoai chấm với tương, nước uống là tích nụ vối ủ nóng. Hiến cho cách mạng tất cả, ngoài tám mươi tuổi vẫn nhận mảnh ruộng khoán đầu ngõ trồng khoai, trồng ngô, không đòi hỏi điều gì. Từ mấy năm trước xã Thuỵ Lôi chủ trương dựng cho hai cụ một ngôi nhà ngay bên cạnh trụ sở Uỷ ban, bên đầm sen. Ông Hồng chủ tịch xã đến nhà vận động, nhưng cả hai cụ đều không muốn rời xa ngôi nhà lá ba gian thấp nhỏ, dựng bằng chính xoan tre nhà trồng, trên mảnh đất ông cha tạo dựng từ thuở còn là một kẻ ngụ cư bơ vơ trên cánh bãi mới bồi; không muốn xa lối ngõ mà từ đây các con đi ra mặt trận; không muốn xa cây nhãn, cây ổi, cây mận, … từng là niềm vui của tuổi nhỏ các con … Ngoài thời gian tham gia công tác đoàn thể của xã, nếu có người đến tìm, cụ ông vẫn quẩy gánh răm đi đóng cối xay, trước là để giúp bà con, sau là có thêm dăm ba đồng đưa bà đong cám nuôi lợn. Chuyện về ông già Tôn đóng cối cũng thật đặc biệt. Đến làm nhà nào, nhìn hoàn cảnh có vẻ túng thiếu, là cụ nói trước: “Tôi mắc cái bệnh ngứa, phải kiêng không ăn thịt, ăn cá(!). Có bày ra tôi cũng không ăn đâu nhé. Cơm rau tương thôi …” Vậy mà cái cối cụ đóng vẫn rất bền chắc, xay nhẹ, chảy nhanh, chín đều. Có nhà không biết tính cụ, mặc cả trước: “Cụ cho biết giá cả thế nào?”. Cụ cười đáp: “Tôi đóng cối chẳng có giá nào cả”. Đúng vậy, đối với các gia đình liệt sĩ, thương binh, bộ đội, cụ chỉ lấy tiền công gọi là, hoặc không lấy. Như đối với nhà bà Đạm, chị Đề, chị Phước, ông Mai … Có người cố ép nài cụ phải nhận tiền thì cụ bảo: “Thế thì tôi nhận, nhưng xin tặng lại cháu để mua giấy bút”. Những chuyện này có khi cụ ông cũng không kể với cụ bà. Mà bà thường biết được khi đi ra ngoài chợ, hỏi đong đấu cám, hay mua mớ cá, người bán lấy giá rẻ đến mức khó tin. “Sao bác bán cho tôi rẻ thế?”. Cụ hỏi và liền được trả lời: “Hôm nọ cụ ông đóng cho nhà cháu cái cối … cụ không lấy tiền” …

 

III

Đầu năm mới rồi, sang tuổi tám mươi nhăm, cụ Tôn bị một trận ốm nặng. Cụ bị cảm gió đột ngột, sau đó hết sốt rét chuyển sang sốt nóng hàng mấy tháng liền. Nằm cùng phòng ở bệnh viện huyện với cụ Tôn có anh Quýnh, một thương binh đã từng gan góc chịu những cơn đau khủng khiếp qua hai lần phẫu thuật luồn ống thép xuyên tuỷ xương cánh tay để bó gẫy xương. Hôm ra viện, đường từ huyện về Thuỵ Lôi lổng chổng gạch đá, mặc dù tay dài tay ngắn, nhưng anh Quýnh cũng xin được đèo xe đạp đưa ông lão về tận nhà. Thấy ông, bà sung sướng nói đùa:

- Tôi tưởng chuyến này ông bỏ tôi mà “đi” cơ đấy!

Cụ Tôn cười đáp:

- Tôi “đi” làm sao được một mình hả bà? Hôm nằm bệnh viện, có một ông biết xem tướng, ông ta bảo tôi còn sống lâu. Nếu có chết thì phải chết cùng bà. Mà có chết trước bà thì cũng không chết được ban ngày, mà phải chết đêm …

- Cớ làm sao mà nhà ông phải chết đêm hôm? - Bà hỏi …

- Là vì ban ngày tôi trông thấy bà, trông thấy các con cháu nhà Tuệ, con nhà Đáng là tôi không thể đi được …- Rồi cụ dặn cụ bà - Bà này, tôi dặn trước bà thế này nhé. Nếu tôi có chết trước, thì bà khóc cho tôi nghe cầu này nhé. Bà khóc thế này này …

Rồi cụ làm điệu bộ mặt hơi cúi xuống, đưa cánh tay ngang mặt lau nước mắt, cất giọng hát “lâm khốc”:

- Hờ … ông ơi! Sao ông không  chết ban i … i ngày  … ông nhớ các con, ông thương vợ - ông i … đành … chê ết đêm ..!

Cả con cháu khách khứa rộn lên cười. Bà cười, khuôn mặt nhiều lo âu ửng lên niềm vui với tình âu yếm …

Nhưng dẫu tính có lạc quan, suốt ngày làm lụng không chịu ngơi tay, thì vào lúc chiều xuống, khi con chim cuốc bên kia bờ ao thôi kêu gọi bạn, bóng tối vây lại quanh luỹ tre thì bà nhận thấy ông lão mệt mỏi và trầm lặng hẳn đi. Cơm xong, ông thường nhấc cái chõng ra sân, chỗ gần cây nhãn ngồi đón gió, nghĩ ngợi một mình, thỉnh thoảng lại đập nhẹ cái quạt làm bằng một mảnh lá cọ khô. Tối nay ông đang nghĩ đến Bái, người cháu gọi ông là bác ruột, cách chỗ ông ngồi chỉ một hàng dậu và một bức tường vách. Bái là một thanh niên có thân hình vạm vỡ, đẹp trai, đúng là dáng vóc con trai họ Đoàn nhà ông. Từ khi xuất ngũ về xã, anh ta không liên hệ gì đoàn thể, ngày ngày vác cái chài đi đánh cá, đem cá ra chợ bán và uống rượu, hay nổi nóng mắng chửi vợ con. Cứ theo lời anh kể, thì anh đã từng chiến đấu ở chiến trường khu Năm. Đơn vị Bái đánh trận nào, thắng trận ấy. Cho đến một trận cực kỳ ác liệt, cả đại đội của Bái hy sinh chỉ còn có tám người. Trong số này người được phong anh hùng, người phong dũng sĩ, mà Bái thì không! Tức khí, Bái đi an dưỡng rồi xin xuất ngũ về Bắc, trong khi anh em thanh niên trong làng trong xã vẫn tiếp tục lên đường vào Nam chiến đấu. Cái cảnh trái ngược, anh ta thì bất mãn hoặc có thể sợ chết bỏ đơn vị quay về, còn các con ông thì nối tiếp nhau xông ra mặt trận, hy sinh và ông sẵn sàng chấp nhận sự hy sinh ấy, đã khiến Bái tỏ ra “bất mãn” cả với chính ông. Có lần uống rượu say Bái đã bảo vợ chồng ông là “cô quả”, là “đẩy các con vào chỗ chết”!. Thời gian đầu thì ông tức giận, dần dà lại thấy thương Bái. Thực tế cuộc sống đã chứng tỏ ông không phải là “cô quả” như Bái nói, mà chính anh ta mới là người cô độc giữa làng xóm, giữa đất nước này. Đang thời kỳ giáp hạt, vợ chồng Bái thiếu ăn đã phải bớt bữa. Vụ ngô sớm đang trổ cờ, phun râu thì gặp rét đậm, bắp lép, ít hạt. Xã giúp đỡ trước hết những gia đình thương binh, liệt sĩ, gia đình neo đơn. Thương các con Bái đói, ban đầu ông bà xúc cho dăm đấu gạo. Vợ chồng già chẳng có đâu cho mãi. Về sau, cứ đến bữa, bà xúc cho mỗi đứa bát cơm đưa qua bờ rào. Khi biết chuyện, Bái cấm các con không được nhận. Ông nghĩ ra cách bảo bà sang nhờ Bái lên trạm y tế cất thuốc hộ. Từ hôm ra viện, những lần trước, khi thì chị Côn, khi thì anh Quý, anh Cảnh đi lấy hộ (ai cũng bảo xin nhận ông bà Tôn là bố mẹ đỡ đầu). Ông nhờ Bái đi lấy thuốc hộ là để kéo anh ta lại gần ông, và có cớ để mỗi lần anh ta lên trạm y tế, thì ở nhà bà lại xúc cho mấy đứa trẻ đấu gạo, nói là “bà trả công bố mày đi lấy thuốc hộ ông …”!

Lúc này, vầng trăng muộn nhô lên lửng lơ ở đầu bãi, chỗ dòng sông Luộc lượn vào một khúc cong mềm. Ánh trăng như từ phía bờ sông lướt qua cánh bãi Ương Điền, soi rõ cho ông nhìn thấy một cái gò sâm sẫm nổi cao bên trên tầng mặt bàng bạc của bãi đay. Đúng rồi, ông nhận ra, sau trận ốm, mắt ông có phần sáng hơn trước, nhìn thấy cả gò đất nền miếu Cô Hồn dưới ánh trăng. Năm 1953, tàu chiến của giặc Pháp đi tuần ngoài sông bắn súng “tăng xình” làm đổ sập ngôi miếu, chỉ còn sống sót một cây bàng bên cây nhãn cụt đầu. Ông nói với dân làng xin hạ cây bàng để chẻ làm răm cối, về nhà lên cơn sốt. Bà đi lễ, người ta bảo vì ông hạ cây bàng không sửa lễ báo trước, nên cây đổ, làm cho “ba cô” vẫn ở trên cây bị ngã què, các cô quở phạt (!). Bây giờ ngồi nhớ lại chuyện đó, ông lại chợt rùng mình thấy hiện lên cảnh tháng ba năm ất Dậu (1945), ông chứng kiến cảnh những người bị bắt đi phu xe thóc tạ cho Nhật, vừa đẩy xe vừa moi trộm thóc trong bao vã vào mồm nhai sống. Đường từ làng ra chợ Xuôi nhiều chỗ phải nhắm mắt lại mà bước qua xác người chết đói. Ngoài chợ, người chết đói nằm la liệt. Sáng ra phu chợ lại kéo ra chôn ngoài bờ sông. Mấy năm sau những nhà có của làm phúc mới mua những cái tiểu sành đặt ở cuối chợ, người đi chợ tùy tâm bỏ vào năm xu, một hào để lấy tiền thuê người bốc hót hài cốt người chết đói vô chủ, mang về quy tập tại một khu ở bãi Ương Điền, rồi dựng lên một cái miếu nhỏ, gọi là miếu Cô Hồn. Đâu phải chỉ người tứ xứ đến đây xin ăn chết đường đói chợ, mà ngay xóm Thụy Dương này, có tới năm mươi gia đình có người chết đói. Nhà ông San ngay phía sau đây chín người chết đói. Hết chết đói, lại đến chết đạn, chết bom của giặc Pháp, rồi giặc Mỹ. Những ai mà cuộc sống đã trải qua những cảnh chết chóc chồng chất ấy sẽ hiểu đầy đủ ý nghĩa cái chết vinh quang của những người như các con ông …

Chả nhẽ một người như Bái mà không hiểu được điều ấy?

Khi ông ngả lưng xuống chõng buồn lòng nghĩ về thằng cháu thì nghe có tiếng rào đay gãy răng rắc. Rồi tiếng chân người bước lại gần. Người đó là Bái. Ông kể rằng, lúc ấy nhìn Bái đứng, ngực áo mở phanh, ông không đáp lời anh ta chào. Bỗng anh ta ngồi xuống bên chõng, quỳ một chân xuống và nắm lấy cánh tay ông, nói như sắp khóc:

- Con có lỗi với bác, xin bác tha thứ cho con! Bữa tối nay các cháu nhà con được ăn cơm. Con hỏi, nhà con nó nói là gạo bên bác cho. Con nghĩ khổ quá bác ơi, vợ chồng sức dài vai rộng mà phải …

Ông bỗng thấy mủi lòng. Thế là anh ta đã biết nghĩ, đang giận thân và rất khổ tâm. Ông muốn vỗ về, an ủi, muốn tỏ với Bái thái độ đại lượng, bao dung, nhưng lại chợt nghĩ Bái đâu có phải là một đứa trẻ yếu đuối, mà là một người đàn ông sức vóc, đã từng vào sinh ra tử. Ông ngồi dậy, bằng một giọng nghiêm trang, ông nói với Bái thế này:

- Thôi, làm tài trai, thua keo này ta bày keo khác. Hồi đánh Mỹ, anh đã từng vào Nam chiến đấu, rồi không biết vì bất mãn hay sợ chết, anh bỏ về, tôi coi như anh đã thua trận! Thôi thì cứ cho là chuyện ấy đã qua. Bây giờ coi như đánh trận mới. Bây giờ anh hãy làm dũng sĩ đánh đuổi cái nghèo, cái đói cho vợ con anh, cho bà con xóm đây được nhờ, xem sao?

Dưới ánh trăng vằng vặc, Bái ngồi ngây ra như đang thẩm lời ông.

1986-1989

Lời nói sau:

Thưa cùng bạn đọc.

Tôi lục tìm và giới thiệu lại bài viết về gia đình cụ Đoàn Văn Tôn ở làng Thuỵ Lôi huyện Tiên Lữ, Hưng Yên có năm người con là liệt sĩ qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Giữa lúc dư luận xã hội dậy sóng về các vụ tham nhũng hàng nghìn tỉ đồng của công quỹ, cuộc sống xa hoa hưởng lạc của các quan tham cùng dư luận về sự kiện nhà sư Minh Tuệ đi khất thực từ Nam ra Bắc, đã chọn đường tu khổ hạnh sống tối giản để thử thách nghị lực của mình. Cụ Đoàn Văn Tôn và cụ bà cũng là những vị tiên thánh đã nhiệt thành dâng hết cuộc đời cho dân cho nước, là một tượng đài về đạo đức làm người để khiến muôn đời kính trọng và tri ân. Đọc lại bài viết tôi rưng rưng nhớ lại kỉ niệm về thăm hai cụ và giới thiệu với bạn đọc như một nén hương thơm kính nhớ hai cụ đã nhẹ bước về với thế giới người hiền, xứng đáng tôn vinh là bậc tiên thánh của vùng quê sông Luộc ân tình.

NPL

Tháng 07-2024

Người đăng: Nhà báo, Ths. Chu Huy Phương